Các chỉ số tài chính
Giá hiện tại (đồng)
78,200
Khối lượng GD trung bình 1 tháng (CP)
2,506,236
Cao nhất 6 tháng
85,600
Thấp nhất 6 tháng
62,823
EPS
4,232
ROE
25%
ROA
16.70%
% Cổ tức
0%
Vốn hóa thị trường
(Tỷ đồng)
162,180
Vốn chủ sở hữu
(Tỷ đồng)
32,246
Tổng quan doanh nghiệp
• Lịch sử hình thành:
Vinamilk là doanh nghiệp đứng đầu ngành sữa Việt Nam, với hơn 45 năm lịch sử hình thành và phát triển. Tiền thân của Vinamilk là công ty Sữa – Cà phê miền Nam được thành lập từ năm 1976.
Những cột mốc đáng nhớ trong lịch sử của doanh nghiệp có thể kể tới là:
- Năm 2003, Vinamilk chính thức chuyển đổi sang hình thức Công ty Cổ phần và sau đó niêm yết trên sàn HOSE vào ngày 19/01/2006. Hơn 15 năm hoạt đồng bền bỉ kể từ khi niêm yết, Vinamilk đã phát triển nhanh chóng và mở rộng quy mô công ty sữa Việt Nam ở cả thị trường trong nước và quốc tế, cụ thể: giai đoạn 2010 – 2018, Vinamilk đã liên doanh với công ty sản xuất bột sữa nguyên kem tại New Zealand; thành lập công ty con lại Ba Lan; đầu tư 100% vào công ty con tại Mỹ và khánh thành nhà máy sữa tại Campuchia.
- Năm 2019, thương vụ M&A nổi bật ngành sữa diễn ra khi Vinamilk chính thức đầu tư nắm giữ 75% cổ phần của GTNFoods, qua đó tham gia điều hành Công ty Cổ phần Sữa Mộc Châu.
• Về cấu trúc:
Hiện tại Vinamilk có 4 công ty con và 3 công ty liên kết trong nước, 4 công ty con tại nước ngoài có trụ sở lần lượt tại Mỹ, Campuchia, Ba Lan, Lào và 2 công ty liên kết. Trong đó, nhà máy đặt tại Campuchia sẽ giúp Vinamilk mở rộng hoạt động ở ASEAN, còn với Driftwood, Vinamilk đã mua nốt 30% cổ phần còn lại vào năm 2016, tận dụng khai thác thị trường sữa tại California thông qua công ty sữa lâu đời tại đây.
• Cơ cấu cổ đông
Hiện tại trong cơ cấu cổ đông của Vinamilk có 3 cổ đông lớn nắm giữ lớn hơn hơn 50% cổ phần, bao gồm cổ đông Nhà nước SCIC giữ 36% cổ phần VNM, quỹ ngoại đến từ Singapore F&N Dairy Investment nắm giữa 17.7% cổ phần VNM, quỹ Singapore – Platinum Victory nắm giữ hơn 10% cổ phần VNM. Theo thông tin mới nhất thì quỹ này hiện đang đăng ký mua thêm gần 21 triệu cổ phiếu VNM và thành viên của SCIC đang đăng ký bán 1.1 triệu cp VNM.
Chuỗi giá trị sản xuất
- Đầu vào:
Nguyên liệu chính để sản xuất của Vinamilk gồm có sữa bò tươi nguyên liệu và bột sữa. Hiện tại, VNM đang sở hữu 14 trang trại trong nước và 1 tổ hợp trang trại tại Lào. Trong đó, số lượng bò sữa từ trang trại của Vinamilk tại VN có khoảng hơn 32,000 con, cung cấp khoảng 155.5 nghìn tấn sữa/năm, bên cạnh đó sữa tươi nguyên liệu còn được thu mua từ 100,000 con thông qua các hộ chăn nuôi với sản lượng khoảng 193.5 nghìn tấn sữa/năm.
Kể từ năm 2019 sau khi Vinamilk hoàn tất thương vụ “thâu tóm” 75% cổ phần GTN Foods, qua đó gián tiếp sở hữu Mộc Châu Milk thì quy mô đàn bò của Vinamilk đã tăng thêm khoảng 30,000 con, nâng tổng số lượng bò sữa ở Vinamilk lên hơn 160,000 con. Hiện tại, sữa bò tươi nguyên liệu từ trang trại của Vinamilk đáp ứng được khoảng 44% lượng cần dùng trong sản xuất, còn lại là thu mua thông qua ký kết hợp đồng với các hộ chăn nuôi.
Thành phần quan trọng tiếp theo bao gồm sữa bột nguyên chất (WMP), sữa bột gầy (SMP) và chất béo (AMF) được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm không hoàn toàn 100% từ sữa tươi như sữa hoàn nguyên, sữa đặc, sữa chua, sữa bột,….
Ngoài các sản phẩm hương liệu, chất phụ gia, bao bì chiếm tỷ trọng nhỏ thì phần lớn chi phí sản xuất ra các sản phẩm sữa là sữa nguyên liệu. Trong đó, 60% sữa nguyên liệu đầu vào là bột sữa, chủ yếu được Vinamilk nhập khẩu từ các nước Mỹ, Úc, New Zealand.
Với tỷ trọng bột sữa nhập khẩu tương đối lớn trong giá vốn khiến cho biên lợi nhuận gộp của Vinamilk khá nhạy cảm với sự biến động của giá bột sữa thế giới. Cụ thể, trong giai đoạn 2018 – 2020, giá sữa bột nguyên chất duy trì ở mức thấp do tác động kép từ khi EU bỏ hạn ngạch sữa sau hơn 30 năm áp dụng kể từ 1984 và Trung Quốc – quốc gia nhập khẩu bột sữa lớn nhất thế giới giảm nhập, đại dịch Covid bùng phát vào năm 2020 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng, giảm tiêu thụ sữa toàn cầu. Điều này đã giúp cho Vinamilk được hưởng lợi giảm chi phí giá vốn bột sữa và biên lợi nhuận gộp duy trì ở mức cao. Tuy nhiên, giá bột sữa tăng từ cuối năm 2021 và đạt đỉnh vào tháng 3/2022 đã khiến cho biên lợi nhuận gộp của Vinamilk giảm tương đối, từ mức 42.5% vào quý 4/2021 còn 39.5% vào quý 3/2022.
Chiếm tỷ trọng 40% trong cơ cấu sữa nguyên liệu đầu vào của Vinamilk là sữa tươi, được cung cấp bởi hai nguồn là từ trang trại bò sữa Vinamilk và thu mua từ các hộ chăn nuôi. Giai đoạn 5 năm trước thì tỷ trọng sữa nguyên liệu thu mua chiếm khoảng gần 80% đầu vào, còn lại là thu hoạch từ chính trang trại bò sữa Vinamilk. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, Vinamilk đã tăng khả tăng tự chủ sữa tươi nguyên liệu lên mức đáng kể, năm 2021 sữa tươi thu hoạch từ trạng trại bò sữa Vinamilk chiếm khoảng hơn 44% tỷ lệ sữa tươi đầu vào, tăng lên từ mức 21% năm 2016. Chi phí thu mua sữa từ hộ dân không có quá nhiều biến động, tuy nhiên năng suất bò từ nông trại Vinamilk gấp khoảng 2 lần năng suất của đàn bò từ hộ chăn nuôi, cụ thể trung bình 1 con bò sữa đủ tuổi cho sữa từ trang trại Vinamilk có thể cho được hơn 27l sữa/ngày, còn bò sữa từ các hộ chăn nuôi chỉ cho được khoảng hơn 13l sữa/ngày. Do vậy tăng khả năng tự chủ lên sẽ giúp cho Vinamilk đảm bảo chất lượng và số lượng sữa nguyên liệu đầu vào.
- Sản xuất
Vinamilk hiện sở hữu 13 nhà máy sản xuất sữa trong nước, trong đó 2 nhà máy lớn nhất là Nhà máy sữa Việt Nam được đặt ở Bình Dương có công suất công suất đạt 800 triệu lít/năm và Nhà máy sữa bột Việt Nam (sản xuất sữa bột, công suất gần 54,000 tấn/năm). Tổng công suất các nhà máy của VNM cung cấp các sản phẩm từ sữa 1.8 triệu tấn/năm.
- Đầu ra & phân phối
3 kênh chính phân phối chính: (1) phân phối qua nhà bán lẻ truyền thống, (2) qua các kênh trường học, siêu thị và (3) qua các cửa hàng giấc mơ sữa Việt và online. Trong đó, hơn 80% doanh thu của Vinamilk đến từ thị trường nội địa. Ở thị trường nước ngoài, Vinamilk sở hữu 2 nhà máy sữa là Driftwood (California) và Angkor Milk (Campuchia), hai thị trường này đóng góp vào khoảng 5-7% doanh thu hàng năm của VNM.
Hoạt động kinh doanh
Nhìn vào bảng cơ cấu doanh thu, có thể thấy rõ doanh thu của Vinamilk đến chủ yếu từ thị trường nội địa khi duy trì khoảng 85% tỷ trọng trong giai đoạn 4 năm gần nhất.
- Đối với thị trường nội địa:
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người còn khá thấp. Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công Thương), trong một báo cáo thị trường của Euromonitor, Việt Nam đang thuộc nhóm các quốc gia có mức tiêu thụ sữa khá thấp, chỉ khoảng 26-27l/người/năm, trong khi đó trung bình thế giới đạt khoảng mức tiêu thụ sữa khoảng 97l/người/năm, và trung bình tại châu Á đạt 36l/người/năm. Ở các nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản mức tiêu thụ sữa bình quân đạt khoảng trên dưới 40l/người/năm.
Chính vì lý do trên mà sản lượng sữa của Việt Nam không có sự đột biến nhiều qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 10 tháng đầu năm, sản lượng sản xuất sữa tươi đạt 1,500 triệu lít, tăng 2.5% so với cùng kỳ, sản lượng sản xuất sữa bột đạt 121.5 nghìn tấn, tăng 7.6% so với cùng kỳ. Tính chung, sản lượng sữa sản xuất trong nước hiện đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu của thị trường nội địa, dư địa còn lại được chiếm lĩnh bởi các sản phẩm sữa nhập khẩu.
Là doanh nghiệp sữa lớn nhất tại Việt Nam, việc tập trung chủ yếu vào thị trường trong nước giúp cho kết quả kinh doanh của Vinamilk khá ổn định. Tuy nhiên thị trường sữa trong nước đang dần bão hòa và trở nên cạnh tranh hơn, tăng trưởng doanh thu có xu hướng giảm dần trong gần 10 năm trở lại đây nhưng xét về mặt lợi nhuận thì biên lợi nhuận của Vinamilk luôn ổn định, cụ thể luôn giữ quanh mức 20% lợi nhuận sau thuế trong gần 10 năm.
Đến năm 2021, Vinamilk dẫn đầu về thị phần 3 loại sản phẩm sữa nước, sữa đặc và sữa chua ăn trên thị trường Việt Nam. Việc doanh nghiệp đầu ngành sữa có thể tiếp tục mở rộng để tăng trưởng và lấy thêm thị phần từ thị trường này khá khó khăn, khi nhìn vào sản lượng sữa Việt Nam giai đoạn 5 năm qua có thể thấy thị trường này tăng trưởng khá khiêm tốn. Phương án M&A các doanh nghiệp nhỏ hơn và mở rộng thêm mảng kinh doanh mới có thể đang là chiến lược dài hạn của Vinamilk.
- Đối với thị trường xuất khẩu:
Vinamilk có khoảng 10% cơ cấu doanh thu đến từ xuất khẩu, chủ yếu qua các thị trường Trung Đông và Đông Nam Á, hơn 5% còn lại đến từ 2 nhà máy sữa ở nước ngoài cụ thể là Driftwood (California) và Angkor Milk (Campuchia). Năm 2013, Vinamilk mua lại nhà máy sữa Driftwood - nhà máy sữa được thành lập từ năm 1920 tại bang Califonia và là nhà cung cấp sữa cho hệ thống trường học Nam California. Ngoài ra thì nhà máy sữa Angkor Milk cũng là là nhà máy sữa đầu tiên tại Campuchia, được Vinamilk khánh thành năm 2016. Tuy nhiên, đến nay mức tăng trưởng ở 2 thị trường này vẫn còn khá khiêm tốn.
Tình hình tài chính
Vinamilk sở hữu một cơ cấu tài sản khá lành mạnh khi hầu như không sử dụng vốn vay dài hạn, tài sản ngắn hạn chiếm phần lớn với đa số đến từ tài sản cố định là các trang trại và nhà máy sữa. Ngoài ra, kết thúc năm quý 3/2022, Vinamilk có khoảng hơn 19 nghìn tỷ tiền gửi ngân hàng, chiếm 55% tài sản ngắn hạn và gần 40% tổng tài sản của doanh nghiệp.
Triển vọng doanh nghiệp
Như chúng tôi đã phân tích ở trên, biên lợi nhuận gộp của Vinamilk có liên đới trực tiếp với giá bột sữa nhập khẩu. Theo chu kỳ nhập khẩu bột sữa nguyên liệu của Vinamilk sẽ tác động trễ đến biên lợi nhuận khoảng 2.5 tháng – 1 quý, giá bột sữa tạo đỉnh vào cuối tháng 3/2022, giảm còn hơn 25% đến tại thời điểm giữa tháng 11 có thể giúp cho biên lợi nhuận gộp quý 4 của VNM nhích thêm khoảng 3% so với con số quý 3, tương đương con số tăng thêm khoảng 480 tỷ đồng.